Tên tiếng Việt : Bách Hợp, Loa Kèn, hoa Huệ Tây
Tên tiếng Anh : Lily
Tên tiếng Pháp : Lis, Amaryllis (Red Lily)
Tên Latin : Lilium
Tên khoa học: Lilium Longiflorum
Họ : Liliaceae (Hành tỏi)
Ý nghĩa :
Lily : Sắc đẹp - Đức hạnh - Thanh cao, quý phái - Kiêu hãnh
Lily trắng : Thanh khiết, trinh nguyên, ngọt ngào, chân thành.
Thông điệp : Thật tuyệt vời khi bên em (It''s heavenly to be with you)
Lily vàng : Lòng biết ơn, sự vui vẻ.
Lily cam : Sự căm hờn.
Lily Tiger : Sự giàu có, kiêu hãnh.
Lily có nhiều loài và nhiều biệt danh khác : Asiatic Lily, Oriental Lily, Madonna Lily, Easter Lily, Bermuda Lily, Trumpet Lily, Snow Queen, Mary''s Tear, Tiger Lily (Turks Cap Lily)...
Lily, Bách Hợp, Loa Kèn hay hoa Huệ Tây trắng là bông hoa rất quan trọng và ý nghĩa đối với Cơ Đốc giáo, biểu tượng cho sự trinh trắng và đức hạnh. Trong Kinh Thánh, Lily được nhắc đến bằng cái tên "vị tông đồ khoác áo choàng trắng hy vọng" (the white robed apostles of hope). Lily mọc trong vườn Gethsemane sau khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Easter Lily được cắm trong nhà thờ suốt mùa lễ Phục Sinh để mừng sự hồi sinh của Chúa Jesus. Lily trắng được dâng hiến cho Đức Mẹ Đồng Trinh (Madonna Lily - Hoa tượng Thánh Mẫu), và là biểu tượng của sự thanh khiết, trong trắng. Truyền thuyết kể rằng trước kia Lily màu vàng, sau khi được Mẹ Maria cúi xuống hái nó lên, Lily mới hóa thành màu trắng.Trong những bức họa xưa, người ta thường vẽ thiên thần Gabriel cầm trong tay một cành hoa Lily trắng đến báo tin cho Mary rằng bà sẽ là mẹ của Chúa Hài Đồng.
Những bức họa khác còn vẽ các thánh đem những bông Lily trắng đến cho Mary và Jesus. Chuyện kể rằng, Thomas nghi ngờ, khăng khăng đòi mở huyệt để xem Người có thật sự đã được lên Thiên Đàng. Khi huyệt mở ra, ông thấy trong huyệt đầy ắp hoa Hồng và hoa Huệ Tây trắng xinh đẹp. Cùng với hoa Hồng, Lily trở thành những bông hoa của Mary. Đối với những người Cơ đốc giáo, Lily trắng còn là bông hoa truyền thống cho mùa lễ Phục Sinh, lễ Truyền Tin như là biểu tượng hân hoan vui mừng trước vẻ đẹp, niềm hy vọng và cuộc sống.
Người La Mã và Hy Lạp cổ đại đã từng tôn vinh Lily trắng lên ngôi cao nhất của các loài hoa. Trong các lễ cưới Hy Lạp và La Mã bấy giờ, người ta đội lên đầu cô dâu vòng vương miện hoa Lily trắng trang hoàng với lúa mì như biểu tượng của sự thanh khiết. Vậy mà Lily cũng là biểu tượng của cái Chết và được đặt trên những ngôi mộ. Ngày xưa, người ta còn tin rằng Lily tự mọc trên những ngôi mộ của những người trong sạch, vô tội mà bị xử oan. Truyền thuyết Tây Ban Nha cổ kể rằng ăn cánh hoa Lily sẽ giúp cho người bị biến thành quái vật được trở lại thành người. Lily cũng là một bông hoa phổ biến trong văn minh Do Thái cổ (từ Hebrew - Do Thái cổ của Lily là Shusan) và là bông hoa thiêng của người Assyria cổ. Nó từng được nhắc đến trong kinh Tân Ước. Thời Trung Cổ, theo những quan niệm mê tín, nếu mơ thấy Lily vào mùa xuân báo hiệu một cuộc hôn nhân hạnh phúc và sung túc, ngược lại, nếu mơ thấy Lily vào mùa đông, sẽ là điềm báo sự thất vọng hay sự chết yểu của người yêu. Cũng ở thời kì này, người ta còn dùng Lily trắng (củ của nó), để chữa bệnh. Thế nhưng, khoa học ngày nay đã chứng minh rằng Lily thực ra không có dược tính và những phương thức chữa bệnh từ Lily vì thế chỉ là huyền thoại.
Trong thần thoại Hy Lạp, Lily trắng được sinh ra chính từ những giọt sữa của nữ thần Hera (Queen of Heaven) - vợ thần Zeus. Chuyện kể rằng, Hercules là con trai của Zues với một phụ nữ bình thường Alceme. Vì muốn cho con trai mình có thêm sức mạnh thần thánh, Zeus để Hera ngủ say rồi đặt cậu bé bên cạnh nữ thần cho bú sữa. Khi Hera tỉnh dậy, bất ngờ và tức giận, bà đẩy đứa trẻ khỏi mình. Những giọt sữa thừa lúc ấy phun trào xuyên qua bầu trời tạo nên dải Ngân Hà (the Milky Way), còn vài giọt rơi xuống mặt đất, từ đó mọc lên những bông hoa Lily trắng đầu tiên...
Lily là bông hoa thiêng của văn minh Minoan * , biểu tượng đặc biệt của vị Nữ Thần thống lĩnh thời kỳ Minoan, Britomartis hay Dictynna, khởi nguyên từ thời Đồ Đá. Bà duy trì uy quyền của mình ở Crete cho đến khi trận Đại Hồng Thủy huyền bí xảy đến với nền văn minh Minoan vào giữa thế kỷ 16 trước Công Nguyên. Khi giáo phái của nữ thần dần dần bị đồng hóa vào tôn giáo của người Hy Lạp, bà trở thành tiền thân của nữ thần Mặt Trăng - Muông Thú - Săn Bắn Artemis trong thần thoại Hy Lạp (chị em sinh đôi của thần Mặt Trời Apollo, tương ứng với nữ thần Diana trong thần thoại La Mã).